Phân tích về 7 nguồn năng lượng mới có tính tạo cao trong cuộc sống


Trong bài viết này chúng ta sẽ đi tìm hiểu về quang điện , nhiệt năng từ mặt trời , năng lượng gió , năng lượng mặt trời , năng lượng mang tính tái tạo từ các hợp chất hữu cơ , thuỷ năng , địa nhiệt ứng dụng của các nguồn năng lượng có tính tái tạo này trong cuộc sống



Nếu có vấn đề gặp trục trặc khi sử dụng dịch vụ ? Liên hệ hotline chăm sóc khách hàng 1800.2024 hoặc TƯ VẤN

    Hầu như tất cả các nguồn năng lượng mà con người hiện nay đang sử dụng xét cho cùng đều xuất phát hay có  liên quan tới mặt trời (chỉ trừ năng lượng nguyên tử, địa nhiệt và các nhà máy phát điện hoạt động bằng năng lượng thuỷ triều). Người ta chia ra thành 2 nhóm năng lượng chính :


    Năng lượng từ những nguồn năng lượng được sinh ra từ quá trình hoá thạch như dầu hay khí đốt


    Năng lượng mới mang tính tái  tạo từ những nguồn năng lượng như Mặt trời, Gió, Hợp chất hữu cơ và nhiệt năng của trái đất.


    Các nguồn năng lượng được tạo ra từ quá trình hoá thạch chính là năng lượng mặt trời được biến đổi, lưu trữ trong các hợp chất hữu cơ. Ngược lại ở các nguồn năng lượng mới mang tính tại tạo thì năng lượng mặt trời được sử dụng dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Hiện nay có những khả năng sử dụng năng lượng mới mang tính tái tạo như sau:


    Năng lượng mặt trời


    Năng lượng gió


    Thuỷ điện hay năng lượng từ sức nước


    Địa nhiệt


    Năng lượng từ các hợp chất hữu cơ


    Hiện nay mức tiêu thụ năng lượng trên thế giới tổng cộng là


                                                          1,07 x 1011 MWh.


    Trong đó mức tiêu thụ điện năng là


    1,87 x 109 MWh


    Chiếm khoảng 17% mức năng lượng tiêu thụ tổng cộng.


    Có thể thấy rằng trong những năm tiếp theo thì mức tiêu thụ năng lượng tổng cộng nói chung cũng như mức tiêu thụ điện năng nói riêng sẽ tăng lên rất mạnh trên phạm vi toàn thế giới.


    1.2              Năng lượng mặt trời


    Năng lượng mặt trời là năng lượng được tạo ra từ các phát ứng hạt nhân của mặt trời. Năng lượng này có thể thu được dưới dạng bức xạ điện từ chiếu xuống trái đất.

    Ở biên giới khí quyển thì cường độ (Công suất) của bức xạ mặt trời có giá trị là  1,367 kW/m². Nếu các tia bức xạ mặt trời chiếu vuông góc tới một mặt phẳng trên bề mặt trái đất thì cường độ bức xạ chỉ còn vào khoảng 1 kW/m².

    Thông qua các tia bức xạ mặt trời có thể thu  được 1 mức năng lượng hàng giờ là

    1,74 x 1011 MWh

    trên trái đất.

    Hay nói cách khác là trái đất nhận một công suất là 1,74 x 1011 MW.

    Năng lượng mặt trời này dùng chủ yếu để làm ấm bầu khí quyển, trái đất và nước. Chỉ có khoảng 1 - 2 % năng lượng mặt trời được biến thành năng lượng gió. Và khoảng 0,02 – 0, 03 % năng lượng mặt trời được sử dụng để tạo ra các hợp chất hữu cơ.


    1.2.1           Quang điện

    Quang điện là hiện tượng biến các chùm tia bức xạ mặt trời thành điện năng nhờ vào hiệu ứng quang điện trong các tế bào quang điện. Cách tạo điện năng này hoàn toàn không gây ra tiếng ồn và  không gây ra sự toả hơi hay mùi.

    Tế bào quang điện có cầu tạo từ rất nhiều lớp mỏng được chế tạo từ vật liệu bán dẫn


    Vật liệu cơ bản của tế bào quang điện là Silic.

     Lượng tử ánh sáng mặt trời chiếu lên tế bào quang điện và kích thích các electron tự do thoát ra khỏi vật liệu bán dẫn. Các electron tự do này sẽ được dẫn theo một kênh dẫn đặc biệt và sẽ tạo ra được dòng điện.


    1.2.2           Nhiệt năng từ mặt trời

    Nhiệt năng từ mặt trời sẽ được dùng để làm nóng nước được chứa trong các bộ thu nhiệt mặt trời đặc biệt. Nước được làm nóng trong các bộ thu nhiệt mặt trời này có thể sử dụng cho sinh  hoạt hay cho sưởi ấm.

    Để làm nóng nước cho sinh hoạt thì với các điều kiện khí hâu ở Đức thì trung bình các thiết bị thu nhiệt cần phải có một diện tích thu nhiệt vào khoảng 1,5 – 2,0 m2/ 1 người. Đối với các thiết bị thu nhiệt dùng cho sưởi ấm thì diện tích thu nhiệt phải lớn hơn từ 2 đến 3 lần.

    1.3             Năng lượng gió

    Năng lượng gió chính là động năng của khối không khí trong khí quyển.

    Động năng này xuất hiện do sự bức xạ không đều của mặt trời lên trái đất. Do sự bức xạ không đều này mà sự làm ấm khác nhau của khí quyển, nước và mặt đất sẽ bị tác động.

    Do sự khác nhau về áp suất và nhiệt độ cũng như quá trình quay của trái đất, khối không khí sẽ chuyển động và sẽ tạo ra những dòng không khí khác nhau vào các thời gian khác nhau trong năm.

    Có thể sử dụng động năng của khối không khí chuyển đông này của các thiết bị phát  điện sử dụng năng lượng gió hay các máy chạy bằng sức gió.

    1.4             Thuỷ năng

    Thuỷ năng chính là khai thác năng lượng của dòng nước chảy. Năng lượng của dòng nước chảy với sự giúp đỡ của những máy móc rất khác nhau sẽ được biến đổi thành năng lượng cơ học. Trước kia năng lượng cơ học này thường được sử dụng trực tiếp. Tuy nhiên ngay này năng lượng cơ học này thường được biến đổi tiếp thành điện năng.

    Với sự trợ giúp của năng lượng mặt trời, nước sẽ bay hơi và chuyển đến các vùng cao dưới dạng các cơn mưa. Và khi chảy từ những vùng cao này trở lại về biển, thì thế năng sẽ được biến thành động năng và năng lượng này có thể sử dụng được.

    Việc sử dụng thuỷ năng có thể được thực hiện với các thiết bị bánh xe nước đơn giản hay nhưng tuốc bin hiện đại.

    Công suất tạo ra được sẽ phụ thuộc vào độ cao của thác cũng như phụ thuộc vào thể tích nước chảy qua.

    1.5             Địa nhiệt

    Địa nhiệt hay còn gọi là nhiệt năng của trái đất là năng lượng lưu trữ dưới dạng nhiệt năng nằm ở dưới bề mặt của lớp vỏ trái đất.

    Khái niệm địa nhiệt mô tả quá trình khai thác nhiệt năng tự nhiên này và biến nó thành các dạng năng lượng cần thiết khác.

    Khả năng khai thác sử dụng năng lượng từ địa nhiệt tuỳ vào những vùng khác nhau cũng sẽ rất khác nhau. Ví dụ ở những vùng có núi lửa đang hoạt động việc khai thác sử dụng rất đơn giản, trong khi ở những khu vực khác cần phải khoan sâu tới hàng nghìn mét để có thể khai thác được nhiệt năng này.

    Ở những lớp đất phía trên (Độ sâu 20 m tính từ bề mặt trái đất) thì địa nhiệt được xác định là phụ thuộc chủ yếu vào bức xạ của mặt trời.



    Ở những lớp đất sâu hơn do sự chênh lệch nhiệt độ giữa nhân trái đất và lớp bề mặt trái đất, nhiệt năng của trái đất sẽ được truyền từ phía sâu ra ngoài. Ở Đức thì cường độ truyền nhiệt năng này vào khoảng 60 - 80 mW/m².

    Sự nóng lên sẽ phụ thuộc vào độ sâu và có giá trị vào khoảng 3 °C / 100 m chiều sâu.

     Địa nhiệt được sử dụng chủ yếu cho mục đích sưởi ấm.

    Để sưởi ấm các ngôi nhà thì nước ngầm có nhiệt độ từ 8 – 100C từ độ sâu tới 30 m sẽ được sử dụng. Nước ngầm này sẽ được xử lý tới nhiệt độ sưởi ấm nhờ vào một bơm nhiệt.

    Trong trường hợp cần lượng nhiệt năng lớn để cung cấp cho cả một vùng nào đó thì phải thực hiện khoan các lỗ với chiều sâu hàng nghìn mét.

    Ngoài ra cũng cần phải thực hiện các lỗ khoan như vậy trong trường hợp muốn dùng nhiệt năng của trái đất để làm bay hơi nước dùng cho các tuốc bin hơi nước nhằm tạo ra điện năng.

    1.6 Năng lượng mang tính tái tạo từ các hợp chất hữu cơ



    1.6.1 Khái quát

    Hợp chất hữu cơ được tạo ra thông qua sự quang hợp ở các thực vật. Như vậy hợp chất hữu cơ xuất hiện thông qua sự biến đổi trực tiếp ánh sáng mặt trời thành năng lượng.



    Có thể khai thác sử dụng hợp chất hữu cơ  từ những lĩnh vực sau đây:

    - Các sản phẩm thực vật từ nông nghiệp hay lâm nghiệp

    - Các sản phẩm chất thải như ngũ cốc, rơm, gỗ, vỏ bào từ nông nghiệp hay lâm nghiệp  

    Các chất thải ví dụ như chất thải từ quá trình chế tạo các sản phẩm thực phẩm hay các chất thải được thu thập khác

    Các chất thải sinh học có thể được sử dụng bằng 2 cách khác nhau để tạo ra năng lượng tuỳ thuộc vào hàm lượng xenlulo:

    Tạo ra năng lượng bằng cách đốt

    Tạo ra năng lượng bằng cách lên men

    1.6.2       Sự cháy của các hợp chất hữu cơ

    Khoảng 80% chất hữu cơ sẵn có hiện nay có cấu tạo từ gỗ và những chất hữu cơ này sẽ được đốt nhằm tạo ra năng lượng.

    Năng lượng tạo ra được từ quá trình đốt cháy này được sử dụng cho các nhu cầu sưởi ấm hoặc tạo ra điện nặng.

    Quá trình đốt cháy về bản chất chính là sự oxy hoá hợp chất các bon trong hợp chất hữu cơ thành CO2. Quá trình oxy hoá này sẽ giải phóng nhiệt năng.

    Ở quá trình sản xuất điện năng từ các hợp chất hữu cơ thì nhiệt năng được giải phóng từ quá trình oxy hoá này sẽ dùng để tạo ra hơi nước tư nước chứa trong các bình chứa. Hơi nước này sẽ được dẫn vào các tuốc bin chạy bằng hơi nước để tạo ra điện năng.

    1.6.3          Sự lên men các hợp chất hữu cơ.

    Sự lên men các hợp chất hữu cơ là sự phân huỷ của các vật liệu hữu cơ với hàm lượng xenlulo thấp nhờ vào các vi sinh vật trong điều kiện không có oxy và có sự cung cấp nhiệt năng. Quá trình lên men này sẽ tạo ra các khí sinh học. Khí sinh học có cấu tạo từ Methan (Chiếm 60 -70 %) và CO2 (Chiếm 30 – 40 %). Khí sinh học này có thể được đốt cháy để cung cấp nhiệt năng hoặc dùng để chạy các động cơ nhằm tạo ra điện năng.

    Các hợp chất hữu cơ dùng cho việc lên men chủ yếu là các sản phẩm từ nông nghiệp như ngũ cốc hay các chất thải như chất thải từ sinh hoạt hàng ngày hoặc là phân dưới dạng lỏng.

    Quá trình lên men diễn ra theo 3 mức: Thuỷ phân, Tạo thành axid acetic và tạo thành methan.

    Các phần chất thải hữu cơ còn lại sau quá trình lên men này có thể được tái sử dụng làm phân bón trong nông nghiệp.

    1.6.4           Sự biến thành dầu của các hợp chất hữu cơ



    Các sản phẩm nông nghiệp có chứa hàm lượng dầu thực vật lớn như đậu nành, cây cải dầu có thể được ép để tạo ra dâu thực vật. Dầu thực vật nay có thể dung để chạy các động cơ nhằm tạo ra năng lượng